Hình như là mưa ngâu… – Dương Hằng

Ngôi nhà tôi và mẹ ở chỉ lợp bằng mái tranh, mùa mưa về dậy lên mùi âm ẩm. Sương hay nắng còn che trú tạm, mưa xuống là chỗ tôi nằm trở nên ướt nhoẹt. Khoảng vườn nhà tôi rất rộng, mẹ đào xới trồng đủ thứ rau cạn, rồi đem ra chợ bán. Vườn choán hết sân, đến nỗi khoảnh đất lởm chởm gồ ghề trước cửa nhà co lại chỉ còn bằng manh chiếu.

Hồi nhỏ, đó là nơi lý tưởng để tôi cùng chúng bạn chơi bi, đánh cù, ô ăn quan. Cây ổi có mặt ở phía góc sân hình như là lúc tôi lên bảy, bây giờ đang mùa hoa trổ, những đốm trắng nhụy vàng giăng nhịp nhàng kẽ lá và cũng là mùa sâu xanh rờn ngủ im lìm trên phiến lá. Dưới tán ổi, tôi xây một ngôi mộ nhỏ, đắp đất lên cao, cắm một nén nhang ở đó. Khói nhang nghi ngút quanh nhà. Tôi chỉ làm như vậy khi ở nhà một mình, nén nhang cháy hết, tôi sẽ vứt xuống sông, và để nó trôi đi. Nhang là tôi xin từ một đứa bạn, nhà tôi không có bàn thờ, nên chẳng bao giờ phải mua nhang cả. Mẹ không biết về sự tồn tại của nén nhang trong khoảng sân nhà mình, chỉ biết một mô đất nhỏ nhô lên, như con bé nghịch ngợm đã xây một ngọn núi. Bà bực lắm, đạp phăng mô đất đó bằng bàn chân to sạm, rồi quở trách tôi vài câu, đại loại như “Mẹ mày chưa đủ bận hay sao còn vẽ việc”. “Cái sân nhà mày chưa đủ xấu à?”. Cuộc sống gồng gánh với mưu sinh khiến bà chẳng bao giờ đoái hoài đến ngày tháng để biết rằng mô đất kia chỉ xuất hiện một tháng hai lần, vào ngày mùng một và rằm. Và chẳng ngờ, chính bàn chân bà đạp đổ đi ngôi mộ của chồng mình – ngôi mộ của cha tôi.

Khi tôi đủ hiểu biết, mẹ bảo cha chết trong một chuyến đi đào vàng xa xôi lắm. Những người đi cùng cha trong chuyến ấy, mới tin rằng cha đã thực sự rời xa mẹ con tôi, mãi mãi. Gánh trụ cột oằn lên vai mẹ. Đôi khi tôi còn nghĩ, mẹ không thương tôi, bà có thể sẵn sàng bỏ rơi tôi bất cứ lúc nào. Cử chỉ âu yếm hay vỗ về một đứa trẻ, tôi chưa bao giờ có từ mẹ. Ngôi nhà chỉ có hai mẹ con mà om sòm bởi tiếng chan chát, đanh chua. Mẹ chửi tôi, rồi bâng quơ chửi đời. Mười tám tuổi, thiếu nữ đã sinh và nuôi con một mình với bao vất vả, cực chẳng đã mới phải chửi ra như cách để bà gỡ nỗi lo, tủi hờn bận bịu ra khỏi tấm thân béo tròn, cục mịch mà ngỡ mình nhẹ người đi mươi mười kilogam – tôi thường vin vào ý nghĩ ấy để thương mẹ. Nếu mẹ định bỏ tôi, thì đã không đèo bòng mười bảy năm nay, ngay cả khi tôi chẳng làm được gì giúp mẹ. Kì thực, những lúc mẹ chửi, ý nghĩ dồn đuổi tôi về cha… Tôi nương vào những giấc mơ có nụ cười hiền từ của cha để bớt giật mình bởi tiếng chửi còn văng vẳng bên tai…


Ngày mưa, mưa rề rà và xám nhoẹt khoảng sân nâu đất và đám rau mẹ mới trồng. Mẹ ngồi ở bậu cửa, lọc những hạt lạc chắc nịch để mai đem trồng, loại hạt gầy ra, nhưng không vứt đi, mà gói ghém cẩn thận vào chiếc túi ni lông nhỏ. Mẹ bảo:
– Mang túi này vào vại để, mai tao trồng. Còn túi này, cất đi hôm nào khoai thái đã phơi khô, thì lấy ra mà nấu với cháo khoai.
Tôi răm rắp làm theo. Lúc tôi quay ra, giọng mẹ ngọt hơn mọi khi:
– Lại nhổ cho tao mấy cái tóc sâu nào, ngứa quá. Nuôi con gái lớn độ này mà chưa nhổ được cho mẹ mày cái tóc nào cả.
Tôi hí hoáy bới tóc mẹ. Mái tóc đen mượt, bởi bà dùng bồ kết nướng lâu năm, mùi hương nhu vẫn còn thoang thoảng. Tôi xuýt xoa:
– Tóc mẹ đen quá, mềm hơn cả tóc con nữa.
– Mày khen thừa. Hồi tao bằng mày, khối thằng giả tiếng tắc kè đầu ngõ. Tóc đen và dài tới qua mông, da trắng nõn. Cả làng có mỗi tao là xinh nhất đấy.
Cuộc sống lam lũ, vất vả chóng phai tàn đi xuân sắc. Mẹ tôi giờ đã ba lăm, già đi nhiều. Bàn tay chằng chịt xác rau, xanh lè, bàn chân máu bùn, máu rạ in hằn chả buồn kì cọ cho sạch. Bà bảo: “Thời gian lội ruộng nhiều hơn ở nhà, thì cần gì đánh sạch. Sạch được một đêm, mai lại đâu vào đấy. Mất công”.
– Đấy, cái đấy ngứa. Mày cứ tìm những sợi như thế mà nhổ tận gốc đi cho tao.
Mẹ vỗ đét vào đùi tôi, đỏ tấy. Nhân thấy mẹ hiền, vui vui lúc tôi nhổ được sợi tóc ngứa xoăn tít như lò xo, tôi gạn hỏi:
– Cha mất khi con mấy tuổi hả mẹ?
– Lúc ấy mày vừa cai sữa xong.
– Sao ngày ấy, mẹ không giữ chân cha, đừng để cha đi con đường nguy hiểm đó?
Mẹ chùng vai xuống, tiếng thở dài nén chặt.
– Cha mày ở nhà thì lấy gì mà ăn. Không chết chuyến ấy cũng chết vì đói. Có khi cả tao cũng chết. Mà cái chết đã định sẵn, thì ở đâu rồi cũng chết thôi.
Mẹ tôi thường độc miệng thế, chứ tâm bà, vẫn lay động. Tôi im lặng, không dám ho he gì thêm, không phải vì sợ hỏi tiếp, bà chửi, mà sợ mình sẽ bật khóc.
– Mà mày quên cha mày đi. Bỏ vợ bỏ con mà đi thì chả có gì đáng nhớ. Mày thương lấy thân mẹ mày đây này.


Tôi thường vẽ ra hình ảnh về ba. Đẹp lắm! Ba sẽ bế thốc tôi lên chiếc xe thồ cũ nát đi ra đồng chở lúa ngô về. Những ngày gió, ba sẽ cùng tôi làm những chiếc diều bằng xương dừa vuốt mỏng và uốn cong. Tôi đuổi theo cánh diều. Diều đuổi theo gió. Cha đuổi theo bước tôi. Nghĩ đến dừa, chợt nhớ đang mùa trĩu quả. Chắc vài bữa nữa mẹ sẽ qua nhà ông hàng xóm nhờ trèo hái giúp. Lúc ấy, tôi rơm rớm nước mắt, giá mà…
Điều ước thành sự thật, tôi có cha. Một người đàn ông đi cùng mẹ về tối nọ. Mẹ bảo ông ấy sẽ sống cùng mẹ con tôi trong ngôi nhà này. Nghiễm nhiên ông ấy thành cha tôi. Ông ấy béo, bệu và cục mịch. Ông ấy không ở lì nhà tôi cả ngày, ông chỉ đến vào lúc nhập nhoạng tối, ăn cơm cùng mẹ con tôi, rồi sáng hôm sau đi sớm. Cổ ông ấy đeo một dây chuyền vàng to bự, nhìn cách ăn mặc cũng đủ biết là lắm tiền. Tôi chẳng hiểu vì sao ông lại chui rúc vào cái xó xỉnh tối tăm này. Tôi buồn, và thương cha. Sợ mẹ, tôi chẳng dám nói với bà rằng tôi không thích ông ấy tẹo nào. Hôm đầu tiên ông ấy đến, cái cách ông ấy nhìn tôi, rồi vuốt tóc tôi rất nhẹ, tôi thấy lạnh gáy. Có một điều, khiến tôi dốc hết can đảm để thổ lộ với mẹ, mặc cho bị ăn chửi:
– Con không thích gọi ông ấy là cha.
– Mày muốn có cha cơ mà?
– Cha chết rồi.
Ba chữ gọn đeo và gấp gấp. Nói xong, miệng tôi mếu máo, mắt ngân ngấn nước. Tôi chạy đi trước khi bà nhìn thấy những giọt nước mắt trào ra. Nước mắt khô cong tự bao giờ, bỗng nhiên tuôn như mưa, khiến tôi sợ người ta bắt gặp mình khóc ghê gớm. Mẹ không là ngoại lệ. Cả buổi chiều, tôi không về.
Tối đó, mẹ lôi xoành xoạch tôi vào buồng, dí tay mạnh vào hông phải của tôi, dằn từng chữ:
– Mày phải gọi ông ấy là cha, vì ông ấy có tiền. Mày muốn mẹ mày khổ mãi à?
Tôi đành phải gọi ông ấy là cha. Tôi hiếm khi nói chuyện với ông ấy. Vài lần tôi quên gọi cha, mẹ tôi quát. Từ khi có sự xuất hiện của ông ấy, bữa cơm trở nên nhạt. Không một ai nói câu gì. Mẹ và ông ấy nằm trong buồng, tôi nằm giường gian ngoài, hai gian chỉ cách nhau bằng dải ri đô xanh nước biển mỏng tang. Có hôm tôi lén thấy ông ấy đưa cho mẹ một bọc tiền. Bà giữ khư khư, không sắm sanh gì thêm, vẫn cần mẫn với nghề bán rau, cũng chẳng sửa sang cho nhà bớt dột mùa ngâu. Và có những đêm, tôi tỉnh dậy lúc canh ba, ra vườn đi tiểu, ngang qua cửa, nghe thấy buồng trong có tiếng thở mạnh, tiếng ấm ứ, tiếng giường kèn kẹt, tôi nhắm mắt, bước nhanh. Khi tôi trở vào nhà, tôi không tài nào ngủ tiếp.
*
Người đàn ông đến khi trời đã chạng vạng tối. Mẹ không về cùng bữa ấy. Từ trong phòng tắm chỉ được chắn bằng bốn tấm mành thưa làm thành bốn bức tường, tôi thấy gã bước tới gần, tay chạm vào tấm mành cửa vào. Tôi vội vàng mặc quần áo. Chớp nhoáng, gã xông vào. Tôi không đủ sức để vùng vẫy. Tôi cắn chặt môi, móng tay bấu chặt vào bờ vai vạm vỡ của gã. Hình ảnh cha thoáng hiện ra như sự cầu cứu. Tôi lịm đi trong tiếng nấc và cơn rát giày vò. Đêm đấy, tôi không về. Tôi ngồi ở khúc sông cuối làng. Bỗng nhiên lại thèm cơn mưa ngâu tắm táp…
Tôi không dám kể cho mẹ nghe câu chuyện ấy. Có những đêm tôi khóc, đến khi không còn khóc được, tôi thiếp đi. Sáng hôm sau tỉnh giấc, sờ vào gối, thấy ươn ướt, cứ ngỡ rằng mùa ngâu đã đến từ đêm qua…
Bữa tối, chỉ có món cà muối mặn, và chát ngoéo, bát canh hến mồng tơi, vậy mà gã ăn liền mấy bát. Gã cắn quả cà rau ráu, bắn tóe cả hạt cà lấm tấm lên mặt tôi. Nếu không có những lần gã đưa tiền cho mẹ, tôi đã nghĩ chiếc vòng vàng kia chỉ là mạ. Giàu như gã, mà vẫn ăn những thứ rẻ tiền này. Thật lạ. Gã nhìn tôi, ánh mắt soi vào bầu vú, tôi đã cố nịt chặt lại bằng chiếc áo ngực mà cách đây ba năm, tôi mặc vừa. Bầu ngực lúc ấy chỉ bằng cái chũm cau. Mẹ nhìn sang gã, thấy gương mặt dê dúa của gã chăm chăm vào vài chỗ trên người tôi, mẹ sinh nghi. Mẹ dằn đôi đũa xuống mâm cơm, rồi đi vào buồng, nằm im thin thít.
Tôi vẫn không tài nào chợp mắt. Muốn đi tiểu cũng chẳng dám ra vườn, sợ đi ngang qua cửa nghe thấy tiếng rên rỉ khẽ khàng, lòng tôi lại đau quay quắt, tim như bị miếng sành vỡ cứa thành vạn ngàn vết xước. Mỗi lần đi tắm, tấm mành chắn kín bưng, nhưng yếu ớt, bàn chân vạm vỡ của gã khẽ đạp vào cũng nát, khiến tôi sợ, hai tay đan chéo nhau giữ bờ vai đang run lên bần bật. Dội một gáo nước, bỗng nhiên lạnh cả sống lưng. Đầu óc tôi váng vất hình ảnh lão nuốt chặt lấy núm vú, một tay giữ chặt tôi, một tay dờ dẫm xuống dưới. Tôi nhắm nghiền mắt, dội nước tới tấp, và cọ sạch thân mình bằng miếng bánh xà phòng.
Tiếng to nhỏ lầm rầm, chan chát như đay nghiến, không phải âm thanh ấm ứ hay kèn kẹt, lại khiến tôi bật dậy, nép vào cửa buồng.
– Có phải ông đã làm gì con bé không? Hãy nói thật đi?
– Ờ, tôi cho bà và nó cuộc sống đầy đủ là được chứ gì.
– Đồ súc sinh. Với con bé thì cha nó chết lâu rồi. Nó đã nuôi hình ảnh đẹp về cha nó, sao tôi có thể nhẫn tâm để nó biết ông là cha nó. Ông biền biệt mười mấy năm trời, sống sung sướng để trở về giết tôi và con gái mình như vậy hả. Đồ mất tính người này, giời ơi…
Tôi cố bấm chặt môi để mình không bật ra tiếng nấc. Tôi chạy đi trong vô định và bàn tay víu chặt nơi lồng ngực đang nghẹt thở như có tảng đá nặng đè lên. Tôi ngồi bên bờ sông, gục đầu xuống, tóc xõa dài che khuất mặt. Cỏ ven sông ươn ướt. Hình như là mưa ngâu…

BT: Vương Chi Lan

Add a Comment

Your email address will not be published.

.
.
.
.