Bù Nhìn Đứng Giữa Mưa – Phạm Thanh Thúy
Mê khúc 1
Năm mười tuổi, vào một buổi chiều mưa ngồi nhìn ra cánh đồng trắng nhòa sau nhà, cô bé Tim trông thấy có một người bất động trong mưa. Cô bé tự hỏi tại sao người đó không tìm một chỗ trú mưa? Tại sao người đó bất động và cô độc đến thế?
Cô bé mới mười tuổi, không hình dung rõ mức độ của hai từ cô độc. Cô chỉ nhớ một tối mùa đông, trong căn nhà lạnh giá không một sắc màu sặc sỡ, mẹ cô cũng run rẩy thốt lên hai từ cô độc. Từ đó cô bé mặc định rằng cô độc có nghĩa là lạnh lẽo… như người bất động ngoài cánh đồng mưa kia…
Năm mười tuổi, lần đầu tiên cô bé giết một con kiến đen ngơ ngác lạc vào trang giấy kẻ ô ly trên bàn học. Đó là một buổi chiều lạnh giá. Cô bé im lặng ngồi nhìn ra cửa sổ, trong tay là chiếc bút chì màu hồng, một đầu bút đính cục tẩy cũng màu hồng, đầu kia vót nhọn hoắt. Cô bé định viết hay vẽ cái gì đó lên trang giấy trước mặt. Chú kiến đen ngác ngơ bò vào trang giấy, bò qua bò lại. Cô bé ngắm kiến đen chăm chú, rồi bất ngờ lấy ngón tay cái có móng dài, từ từ xiết nhẹ ngang thân con kiến, ở ngay chỗ thắt eo của nó…
Nửa đầu của con kiến cuống cuồng lao đi tìm một chỗ ẩn, nửa thân sau bất động, một cái chân bị cưa đứt run rẩy bên cạnh nó. Con mèo trắng có đôi mắt xanh biếc nằm bên cạnh dường như không hay biết số phận bi thảm của con kiến, nó lim rim mắt đợi chờ một cái vuốt ve. Nhưng vào lúc ấy, nửa thân sau đã chết của con kiến bị nhấn chìm trong một giọt nước ấm và mặn mòi. Nửa thân sau đã chết của con kiến nghĩ rằng cuối cùng nó cũng được gặp biển.
“Mẹ nàng, vào một hôm nào đó tâm trạng bất thường, đã nói cho nàng hay rằng nàng vốn không phải là con gái ruột của bà. Khi còn trẻ, bà làm công cho một bệnh viện và một đêm nọ đã nhặt được nàng trong một cái thùng cacton. Bấy giờ vợ chồng bà đã có một cô con gái. Họ đón nhận nàng như thể nàng là món quà của thượng đế, dẫu họ không có căn cứ gì để tin ở thượng đế. Nàng được đặt tên là Tim, một cái tên rất gợi.
Nàng có một tuổi thơ bình thường, không bận tâm gì đến việc mình bị một ông bố bà mẹ đẻ nào đó đang trôi trong đời kia bỏ rơi. Nàng chỉ hơi trầm lặng, điều mà bố mẹ nuôi nàng nghĩ hẳn đó là kết quả của một trái tim quá nhạy cảm. Sau này, bố mẹ nuôi ly dị, nàng sống với chị gái nuôi. Bố mẹ nuôi của nàng sau khi ly dị, đã gần như ngay lập tức có một gia đình mới. Họ ví hai chị em nàng như hai nửa của một tờ bạc mệnh giá cao, không có nửa kia thì không tiêu được. Có cả hai thì họ lại không thể tiêu chung. Chị gái nàng cho rằng chị ấy có thể đảm nhận việc nuôi dạy nàng hoàn toàn tốt như một bà mẹ chỉn chu. Thực tế đã chứng minh như thế. Năm muời tám tuổi, trong khi bạn bè vẫn còn nhõng nhẽo bố mẹ, thì chị ấy đã kiếm được nhiều tiền từ các công việc làm thêm, có thể tự nuôi mình một cách sung túc. Chị gái nàng là mẫu phụ nữ hiện đại mà cả xã hội này mơ ước.
Năm đó bố mẹ nuôi của nàng ly dị. Nàng sống với chị gái nuôi. Chị ấy hai mươi, còn nàng tròn mười tuổi…
Mê khúc 2
Cô chủ nhiệm có mái tóc xoã ngang vai và đôi mắt đen dài nói với chị của cô bé rằng trong lớp học cô bé không bao giờ để tâm lên bảng, mà chỉ nhìn ra ngoài trời, ngay cả khi cửa sổ không mở. Nhưng lạ là hỏi gì cô bé cũng trả lời rất tốt. Trong lớp, em luôn là một trong ba người đứng đầu về thành tích học tập.
Người chị gái trẻ măng sau khi nghe cô giáo nói, lẳng lặng dắt em về căn nhà cấp bốn cũ kỷ nhưng rất sạch sẽ, căn nhà do cha mẹ họ khi tìm được tổ ấm mới đã để lại. Ngôi nhà nằm trong vườn thông già lặng lẽ, mái ngói thâm nâu luôn có vẻ ẩm thấp, một loài rêu nào đấy hoan hỉ mọc, lá thông phủ dày trên mái ngói, rụng đầy trên lối đi. Sau nhà là một cánh đồng. Một cánh đồng thi thoảng bị mưa phủ trắng xóa…
Người chị gái vuốt tóc em thầm thì: Giá như chị có nhiều thời gian dành cho em hơn nhỉ? Giá như em chịu nói chuyện với các bạn thì tốt hơn không? Giá như… Giá như…
Cô bé Tim hôm nào cũng ở nhà một mình. Người chị gái làm kế toán ở một công ty cách nhà ba cây số, luôn luôn về muộn vì các công việc bù đầu. Chị tháo vát nhưng giản dị. Vì nết giản dị ấy mà trong căn nhà của hai chị em không hề có lấy một bức poster ca sĩ, diễn viên hay ban nhạc nào cả. Khi có một mình trong nhà, cô bé chỉ ngồi nhìn ra cánh đồng, nơi có người bất động trong mưa, trong nắng.
“Nhưng nhiều năm trôi qua, chị gái nuôi của nàng vẫn không thành đạt dẫu thay chỗ làm xoành xoạch. Chị bảo chị là người tài giỏi nhưng không thông minh. Thông minh ở đây được hiểu theo nghĩa là biết sống. Khi còn là sinh viên, việc kiếm được nhiều tiền do năng động lại không mấy liên quan đến việc biết sống hay không biết sống. Và khi đi làm, người ta chú trọng việc biết sống hơn tài năng. Việc này thoảng nghe thì phi lý. Nhưng thực tế lại rất có lý…
Nàng lơ đãng lướt qua màn hình máy tính, chị nàng đang than thở với anh người yêu cách xa tận Tân Tây Lan về đường công danh lận đận…
Bên tai nàng là tiếng nỉ non của con chuột nhỏ. Con chuột nhỏ là một trong những con chuột bị nàng bắt và sẽ giết chết rồi ném xác ra đường. Những xác chuột chết bị xe cộ qua lại cán bẹp dí, hôm sau chỉ nhìn thấy một mảng bết lại, khô cong, rồi bằng cách nào đó tan biến không một dấu vết.
Con chuột nhỏ thôi nỉ non, ngước đôi mắt hạt đậu đầy run rẩy lên nhìn nàng. Bình thản và cẩn trọng, một tay nàng dùng chiếc que ấn con chuột xuống, tay kia nhón lấy đôi tai nó, mặc nó giẫy giụa tuyệt vọng, nàng từ từ ấn đầu và cả thân con chuột xuống chậu nước, một chốc lại nhấc lên, lại ấn xuống. Cuối cùng, nàng vứt xác con chuột ướt nhẹp ra đường trong khi hai hàng nước mắt chảy dài…
Nàng đi qua sau lưng chị gái, chập chờn dòng chữ lấp lánh anh kia gửi cho chị nàng: Em lẩm cẩm hay sao? Tim đâu có phải máu mủ ruột rà gì với em nào…
Linh tính nhạy cảm, chị nàng ẩn rất nhanh câu chuyện, quay sang thảng thốt: Tim, sao em khóc thế?”.
Mê khúc 3
Một hôm, cô bé Tim chợt hiểu rằng hình như người cô độc ngoài cánh đồng mưa kia không phải là người thực. Người thực thì không thể lúc nào cũng ở nguyên một chỗ như thế. Thế thì ai đã đứng đó trong nắng, trong mưa?
Cô bé Tim bước trên lối đi rụng đầy lá thông, chầm chậm tiến ra ngoài cánh đồng. Cánh đồng vùn vụt gió. Tấm áo của người cô độc tung bay phần phật. Cỏ xanh mềm và ẩm ướt dưới chân. Cô bé đứng im lìm trên cỏ. Người cô độc không có mặt mũi, chỉ có một chân và hai tay dang rộng. Chiếc nón lá rách bươm đội trên đầu cũng lúc lắc theo từng cơn gió…
“Tôi biết thế nào bé cũng đến. Bé muốn nói chuyện cho tôi khỏi buồn phải không? Ở đây rất buồn, chỉ có gió…”.
… Khi cô bé mở đôi mắt trong veo thì người thanh niên thôi nhìn đám lá thông vi vút trên đầu.
“Chết. Em bị cảm gió ngoài đồng, may mà anh trông thấy, không thì… lần sau không được ra đồng một mình đấy nhé”.
Đó là lần đầu tiên chị em cô bé gặp Minh, chàng kĩ sư nông nghiệp có đôi mắt thật vui. Minh kể, từ xa thấy một cô bé đi ra đồng, đứng bất động rất lâu trước con bù nhìn trông lúa giống của anh. Một lúc lâu nữa không thấy cô bé đâu, chạy đến nơi đã thấy bất tỉnh nhân sự.
Từ buổi trưa nhiều gió đó, cô bé nhận ra mình biết nói chuyện với người cô độc. Người cô độc bảo người ấy có nhiệm vụ đuổi chim, đuổi chuột, chim chuột là giống ăn hại mùa màng, phải diệt chúng đi. Cô bé nghĩ đến việc giết chết những con kiến, rồi những con gián. Lần nào cô bé cũng vừa giết chúng vừa khóc. Rồi cô bé bắt đầu giết chuột. Một công việc đầy đam mê và cũng đầy nước mắt…
“Một lần, đôi mắt người chị gần như tê dại khi nhìn thấy cách cô bé giết chết con chuột. Và bằng một giọng hơi nghẹn, chị hỏi: “Em ác thế? Lúc bé em còn không bao giờ giết một con kiến cơ mà?”.
Cô bé không nhớ khi còn sống chung với bố mẹ nuôi, cô có không bao giờ giết một con kiến như lời người chị gái nói không.
Một đồng nghiệp của chị gái nàng nói rằng: u sầu không phải là tính cách, mà là một loại bệnh. Nó là cách nói khác đi của bệnh trầm cảm. Bệnh này không đơn giản và dễ chữa, nếu không thận trọng sẽ dẫn đến tử vong.
“Trầm cảm ư? Em ấy không thể nào bị bệnh trầm cảm được. Em ấy học giỏi, rất ngoan…”.
Minh bảo có thể khi còn bé, em ấy gặp một biến cố nào đấy lớn lao… Rồi anh kịp dừng lại, ánh mắt lảng đi chỗ khác, anh biết lâu rồi, biến cố ấy là gì…
“Nàng hay ngắm mình trong gương. Thiếu nữ mười bảy tuổi trong gương trao lại cho nàng một cái nhìn lạnh giá. Mẹ nàng thi thoảng ghé thăm hai chị em, kiểu ghé thăm đầy ban ơn và tò mò. Bà thường nhìn nàng rất lâu, rồi lại bảo sao không thấy có ai tìm kiếm nàng nhỉ?
Anh Minh luôn đợi chị nàng khi chị ấy về muộn, một hôm bảo với nàng rằng bé có biết không, bây giờ nhiều người sống bằng tim giả lắm. Giống người tim giả ấy rất đáng sợ, rất đáng sợ… Anh lại bảo nhiều người tim giả ấy hay lấy lòng người khác bằng cách gào lên cho cả thiên hạ biết là tôi yêu cô ấy, anh ấy mãi mãi. Bằng cách nào ư? Là gọi điện đến chương trình của đài, vô tuyến, vân vân. Rồi anh lại gật gù, dù sao trong bọn tim giả ấy cũng có thằng tim thật. Dù sao họ cũng có một phần can đảm”.
Chưa khi nào anh Minh nói đợi chị nàng về vì… muốn đợi. Anh chỉ bảo tình cờ ghé qua. Nàng thinh lặng nghe hai người nói chuyện. Chiếc bút chì màu hồng có một đầu đính cục tẩy và một đầu vót nhọn. Nàng cầm nó trong tay, trước mặt là trang giấy trắng. Con mèo trắng có đôi mắt xanh biếc luôn nằm bên và him mắt. Con mèo đã già đi nhiều, giọng ‘meo’ của nó đã khàn đi. Nó thường bình thản và ngoài cuộc những vụ giết chuột của nàng… Đêm đêm, nàng nghe thấy tiếng nhón chân của nó trên nền ẩm mục lá thông, trên nền xanh êm của loài rêu mọc trên mái nhà.
Một đêm, chị nàng dùng điện thoại dò sóng FM, có một chương trình mà người ta công khai gửi lời tỏ tình đến với người mình yêu, mà vì lẽ nào đó trong đời thực họ không nói được.
Chị thở dài…
Mê khúc 4
Anh Minh tuần nào cũng ghé qua nhà cô bé một đôi lần, thường thì anh đứng ở sau nhà, một tay chống hông, một tay vịn vào chấn song cửa sổ, cả mắt và miệng anh cùng cười. Anh bảo mỗi vụ anh phải làm một bù nhìn mới, ban đầu chỉ là bù nhìn rơm và trang trí qua loa thôi, nhưng sau anh nảy ra ý nghĩ tại sao không làm một bù nhìn như người thật. Để làm gì nhỉ? Chả biết, chỉ biết có ai đó trong thẳm sâu mách bảo như thế
Nhưng bao bù nhìn thế chỗ bù nhìn xưa, thì cô bé đều biết thực ra không có ai thay thế cả, vẫn giọng nói ấy, vẫn tâm tình ấy, bù nhìn không khi nào thay đổi tấm lòng… Bù nhìn lần đầu tiên nói chuyện với cô bé, hứa rằng sẽ tặng cô bé một món quà nhiều ý nghĩa.
Một buổi trưa ghé qua cửa sổ, anh Minh trao cho cô bé một món quà: Một cây bút chì màu hồng có khắc chìm ba chữ cái “TIM”.
Bù nhìn nắm chặt tay nàng… Ta đi thôi!
Nhưng chàng đứng lặng, đôi mắt hẫng hụt chơi vơi nhìn ra cánh đồng mưa. Một cơn mưa bất ngờ dữ dội khiến những chiếc xe tải ù ì chở đất lấp đồng ngẩn ngơ và chịu nằm chết dí, chờ cơn mưa qua. Bù nhìn thảng thốt, còn nàng tuôn nước mắt như vừa giết chết nhiều con chuột.
Chị gái nàng nằm trên giường nghe sóng FM, bên ngoài là cơn mưa tháng sáu. ‘”Xin mời chủ nhân số điện thoại 090xxx nhận món quà là ca khúc… do số điện thoại 098xxx gửi tặng với lời nhắn: Lời bài hát cũng là lời anh muốn nói với em…”.
Giọng chị nàng nghẹn ứ: “Trời ơi! Tên ngốc này! Bao nhiêu năm sao không nói…”.
Chị chạy đến bên nàng, muốn khoe với em về món quà lãng mạn, lại nghĩ em ngủ rồi nên thôi.
“Nàng để tay mình trong tay bù nhìn, hai người đi vào mưa. Bỗng nàng sựng lại. Nàng quên không mang đi một món quà. Chiếc bút chì màu hồng, bảy năm trôi qua, chỉ được viết duy nhất bức thư yêu cầu bài hát gửi chị nàng thay Minh.
Chị nàng cầm cây bút chì trên tay ngắm nghía. Có lần nàng bảo bút chì nếu viết sẽ mòn đi mãi mãi.
Gió và mưa lay rèm vải phơ phất… Chị nàng ngồi nhìn ra sau nhà, lần đầu tiên thấy hai bù nhìn đứng giữa đồng mưa.
Mê khúc…
Mười hai chiếc bánh flan
Kim là con gái một ông già sửa giày cũ trên vỉa hè. Hình thức không tồi. Tính tình “ngổ ngáo và tàn nhẫn” (cha Kim bảo thế). Mỗi lần Kim hỗn, cha mắng thậm tệ, nhưng sau đó chính ông lại khóc. Ông thương Kim vì không có mẹ nên bao nhiêu nữ tính đã chìm lút vào tuổi thơ vất vả. Kim chẳng nghĩ thế, biết đâu có mẹ, Kim vẫn là Kim bây giờ.
Cha Kim có một người khách tên Hồng, quen đã nhiều năm. Người này mỗi tháng một hai lần mang đến cho ông những đôi giày rất đắt tiền. Không phải tất cả những đôi giày này đều cũ và cần sửa chữa. Đơn giản là có khi chủ của chúng mua chúng về từ một hiệu giày sang trọng nào đó, nhưng chưa kịp dùng thì đã chán chúng rồi. Bà Hồng đem chúng đến chỗ cha Kim. Ông sửa sang tí chút rồi bán đi. Nhiều người có nhu cầu đi những đôi giày hàng hiệu mà không phải bỏ ra một khoản tiền lớn. ít nhất là ở thành phố này, họ tìm thấy điều đó chỗ ông. Bà Hồng thì đã quá tuổi để diện những đôi giày như thế. Bà là người giúp việc lâu năm cho một gia đình giàu có.
Một lần, bà Hồng không mang giày cho cha Kim, mà nhắn ông cử người đến lấy. Vì thế Kim mới có dịp bước chân vào ngôi nhà giàu có đó. Lần đầu tiên Kim được tận mắt thấy một gia cảnh giàu thật là giàu.
Trong lúc chờ bà Hồng, Kim đứng ngắm ngôi nhà và gặm nhấm cảm giác mình giống một chú kiến nhỏ lần đầu tiên đứng trước một cái bánh ngọt khổng lồ, thơm ngọt lịm người.
Đang mải nhấm nháp chiếc bánh liên tưởng thì một người đàn bà bỗng đâu chạy đến, níu tay Kim mà giật, lắc, rồi gọi: “San con ơi!”
Kim rất lấy làm lạ lùng. Sao Kim lại là San, sao lại là “con” của bà ta, trong khi chẳng ai dám bảo Kim không phải con gái ông thợ sửa giày nghèo kiết trong xóm nhỏ ngoại ô.
Kim đang không biết phải làm sao với tình thế dở hơi này thì một thanh niên trong nhà chạy ra. Bằng một giọng khá “nữ tính”, gã hết động viên, xoa dịu, doạ dẫm, rồi giằng co, cuối cùng cũng đưa được người đàn bà vào nhà. Trước khi khuất sau cánh cửa lớn, gã ném một tia nhìn vào mặt Kim. Kim không hiểu cái nhìn đó có ngụ ý gì, hay đơn giản là không ngụ ý gì cả, nhưng có cảm giác không thích. Tất nhiên, suốt buổi “thuyết trình” của gã, Kim đã trố mắt ra nhìn như một con ngốc thiếu tế nhị.
Khi được bà Hồng tiễn ra cửa, Kim không bỏ lỡ cơ hội thắc mắc:
“Sao bà ấy lại gọi cháu là San hở bác?”
Bà Hồng cười ngất:
“Dào ôi! Ai bà ấy chả gọi là San.”
Kim về, chẳng bận tâm gì đến chuyện đó nữa.
Mấy ngày sau, gã tìm đến Kim trên chiếc xe ô tô màu trắng sữa. Gã nói muốn thuê Kim với một khoản tiền hậu hĩnh.
Và giờ thì Kim đã sống bên trong ngôi nhà đó, trong vai một tiểu chủ nhân. Việc của Kim rất đơn giản: Chẳng phải làm gì hết, chỉ việc là San, làm mọi việc tương tự như San, gọi bà chủ là mẹ như San. Mà San thì Kim ngờ rằng đã chết từ đời tám hoánh nào rồi.
Nhà họ có sáu người. Ông bà chủ, vợ chồng anh con cả, gã và cô út chưa chồng. Nhưng đến nhà họ “làm thuê” đã lâu, Kim vẫn chưa hề thấy họ gặp mặt đầy đủ. Có người này thì không có người khác. Có người về nhà lúc người kia đi, và đi khi người kia về. Ngoài “mẹ”, Kim chỉ gặp nhiều nhất là gã. “Mẹ” ốm đã lâu, hầu như không ra ngoài. Còn gã thì chẳng phải làm gì cả, chỉ ở nhà để mắt đến mẹ và tự tay chế biến bánh flan cho hai mẹ con. Gã có chiêu dỗ mẹ bằng bánh flan, mỗi khi bà lên cơn “không bình thường”. Bà Hồng bảo trước gã dong dỏng đẹp trai, từ ngày trở thành tín đồ của bánh flan gã mới phát phì như thế, và có cơ không chỉ dừng lại ở đó. “ Người ta nói rau nào sâu nấy, nó sắp biến thành sâu bánh flan đến nơi rồi” – Bà Hồng kể với giọng sầu đời.
Kim chẳng biết flan là thứ bánh quái quỷ gì, nhưng Kim cho rằng nó là thứ bánh nhà giàu. Không giàu sao gã lại mê tơi đến thế.
Một lần, Kim gặp gã đang ngốn ngấu một cách đầy say mê bánh flan trong phòng bếp.
Thấy Kim, gã vẫy lại gần, không thèm mời ăn bánh, (có mời Kim cũng cóc thèm) ra vẻ uể oải một lúc mới cất giọng kể cả:
“Mày vào nhà tao là sướng nhất quả đất rồi đấy. Mày không tin thì soi gương mà coi…”
Kim có khuôn mặt xinh xắn, nhưng nhìn tổng thể thì trông thật thảm hại. Mái tóc xù, luôn trong trạng thái phồng lên khiến cái đầu của Kim trở nên quá khổ so với cái cổ mảnh mai. Đã vậy, khi nhìn Kim bước đi, người ta luôn có cảm giác người Kim đang nghiêng về một bên và có thể thình lình đổ ập xuống đất bất cứ lúc nào. Người ngoài bảo Kim may mắn thừa hưởng vẻ thanh tao của khuôn mặt của mẹ, nhưng lại bất hạnh khi mang dáng dấp khắc khổ của cha. Cha bảo Kim đã không đi nghiêng một bên nếu có mẹ uốn nắn. Tóm lại, Kim ra nông nỗi ấy vì không còn mẹ. Người không còn mẹ rất bất hạnh. Người con gái không có mẹ còn bất hạnh hơn.
“…được như mày. Tao tính nát óc đấy chứ có phải không đâu. Chọn con nhà tử tế thì tốt quá. Nhưng có đứa ngu nào tử tế lại chịu đi làm con thuê. Chọn một đứa bụi đời quá dễ, nhưng không tin được. Nhỡ nửa đêm nó gọi đồng bọn vào cắt cổ cả nhà, cuỗm tiền vàng đi sạch thì có mà dở hơi. Thế nên tao mới chọn mày. Mày vừa nghèo vừa không bụi đời. Nhưng mà…”
Kim bỏ ra ngoài trước khi gã “turn off” cái loa rè. Thấy thái độ lấc cấc đó của Kim, gã gầm gừ “Thật là con nhà vô lối.”
…“Mẹ”, công bằng mà nói thì rất có dáng dấp một giai nhân, nhưng vì bệnh đã lâu, nên trông khá tiều tuỵ. ở bên “mẹ”, đôi lúc Kim cũng cố hình dung về mẹ đẻ. Cha Kim bảo mẹ Kim rất xinh. Bà lấy ông vì lỡ có thai với người tình, dĩ nhiên là bị anh ta hắt hủi. Hoang thai đó là chị gái Kim. Bà chỉ trả nghĩa cho ông bằng sự có mặt của Kim trên đời, rồi đi…
“Mẹ” cả ngày chỉ ngồi xem ti vi và đọc sách. Việc thường xuyên nhất của “mẹ” khi Kim đến là giữ Kim khư khư, vạch tóc đòi bắt chấy. Kim không biết “mẹ” có xem, có hiểu, có cảm nhận gì ở những chuyện phim buồn tẻ trên ti vi hay những tiểu thuyết chữ to rẻ tiền không, nhưng việc những ngón tay của “mẹ” cào đến đau da đầu Kim chỉ để bắt một vài con chấy kềnh tưởng tượng thì Kim chỉ có hai mong muốn, một là choài ra bằng mọi giá, hai là bóp chặt cổ tay “mẹ” đến đau nhừ. Một lần Kim làm thế, “mẹ” khóc, nhìn thật tội… Dĩ nhiên việc nào cũng hoàn toàn không dễ. Đôi tay lẩy bẩy mềm yếu của “mẹ” có thể hững hờ với bất cứ thứ gì, nhưng cứ túm được Kim là không dễ buông ra. Kim liên tưởng đôi bàn tay “mẹ” giống như đôi càng cua, khi kẹp vào ngón tay, người ta càng kêu la, càng cuống thì nó càng kẹp chặt. Nhiều lần “mẹ” giữ Kim cả buổi trong phòng, hết sục những ngón tay vào tóc Kim tìm chấy, lại hát chèo, rồi kể cho Kim hàng lô xích xông những chuyện đâu đó. Kim dĩ nhiên không hiểu, mà cũng chẳng cần hiểu, chỉ cần “mẹ” lơi tay là Kim biến mất.
Mà “mẹ” hát chèo rất có nghề.
Gã không bao giờ mở miệng giải thích cái kiểu “giữ khư khư” Kim của mẹ gã (Kim cho rằng đó là sự ám ảnh về việc “mẹ” để San tuột khỏi tay mình, và hẳn San …rất nhiều chấy ), cũng chẳng buồn quan tâm đến việc Kim xoay sở kiểu gì trong tình huống ấy. Gã chỉ nhắc Kim làm tròn bổn phận khi thấy Kim với nét mặt cực kì hí hửng ngồi dưới gốc ngọc lan ngoài sân, còn mẹ gã thì cứ ỉ ôi gọi “San à, San ơi” không ngớt. Trong giao ước, gã yêu cầu Kim ngoài việc giả làm San, cứ làm những gì Kim thích, trừ việc đừng có tọc mạch vào chuyện gia đình gã. Một điều được gã nhấn mạnh – mà nếu vi phạm Kim sẽ bị đuổi việc ngay tức khắc – đó là đừng bao giờ đụng đến những vật dụng riêng tư trong phòng ngủ của “mẹ”. Để cảnh cáo thêm phần sống động, gã lấy ví dụ trước Kim đã có dăm bảy “San” bị đuổi việc vì không kiềm chế được lòng tham và thói tò mò tọc mạch.
Kim không phải là đứa tham lam, càng không thích tò mò, dẫu có là bí mật của thủ tướng Kim cũng không quan tâm. Nhưng Kim vẫn biết chuyện gia đình gã.
Kim biết chuyện của gia đình gã nhờ bà Hồng. San là con gái út của “mẹ”. San chẳng phải một đứa xinh đẹp đáng yêu gì, nhưng “mẹ” thương San vô cùng. Năm San khoảng mười bảy, đột nhiên không ốm đau bệnh tật gì mà lăn ra chết. San chết, “mẹ” cũng đổ bệnh luôn. “Mẹ” mắc một tâm bệnh, cả ngày sống trong mơ hồ. Lạ là mọi việc trong quá khứ, mọi cái tên từng nghe, mọi khuôn mặt từng gặp, “mẹ” đều không quên, còn có thể nhắc lại những kỉ niệm xa xôi nào đó nữa. Chỉ riêng có việc của San là “mẹ” mơ hồ. Chuyện này được khẳng định rõ rệt nhất là khi con trai cả nảy ra sáng kiến thuê một đứa con gái chạc tuổi, mặt mũi hao hao như San về thay thế San. “Mẹ” quả nhiên coi nó như San, như báu vật trong đời…
Kim không thích những ý nghĩ ngấm ngầm trong đầu khi ở bên người dưng này. Đó là việc hằng ngày giả làm con bà ta, cố làm ra vẻ mình đã sắm được một bà mẹ danh giá, rồi lại hình dung về mẹ đẻ. Nếu mẹ để mất Kim trong một tình huống tương tự, liệu bà có phát điên không?
Không. Chắc chắn thế. Vì nếu có phát điên, mẹ chỉ phát điên vì chị gái Kim mà thôi.
Kim thường cảm thấy uể oải, mỏi mệt khi nạp những ý nghĩ đó vào đầu.
Vài lần Kim thử mua những tạp chí kiểu “hạnh phúc gia đình” về đọc, xem người ta làm mẹ như thế nào. Thật sáo rỗng, khuôn mẫu và chán ngắt. Những bà mẹ trong tạp chí chỉ là những bà mẹ điển hình của số đông, những bà mẹ Kim gặp trong số đông lại không điển hình. Vô vị. Kim vứt chúng vào xó bếp.
Lẽ ra Kim không bao giờ quan tâm đến sự tồn tại của ông chủ nếu một lần cha Kim không hỏi về ông. Tất nhiên lúc đó Kim không thể trả lời cha. Câu trả lời đến với Kim vào một hôm khác.
Một buổi trưa, từ phòng “mẹ” chạy xuống, Kim đã vô ý đâm sầm vào ông chủ. Cú đâm khiến Kim ngã quay đơ ra sàn. Ông ta giầu sụ, nhưng gầy đét, khuôn mặt choắt với đôi mắt hung dữ. Đôi mắt xoáy vào Kim một tia lạnh lẽo khinh miệt. Mãnh lực của sự khinh miệt trong cái nhìn của ông ta rất khủng khiếp.
Kim nghĩ ông ta sẽ bỏ qua cho lỗi vô ý đó, trừng phạt bằng cái nhìn như thế là vừa đủ, nếu như “mẹ” không từ trên tầng chạy xuống, vồ lấy Kim và kêu ầm ĩ : “San con ơi. Ông định giết con tôi lần nữa đấy hả? Ông là đồ khốn nạn.”
ái chà. Thật là một cơn thịnh nộ cuồng phong. Kim bị bóp nghiến trong tay “mẹ” khi bà vừa lay, vừa lắc.
Ông ta dửng dưng nhìn “hai mẹ con”. (Kim đã gặp nhiều sự dửng dưng trên đời, nhưng chưa bao giờ thấy một sự dửng dưng đáng nhớ đến thế.) Sau đó, thản nhiên nhỏ toẹt một bãi nước bọt trước mặt vợ, rồi mới bỏ đi.
Kim không kể chuyện đó cho cha. Đơn giản, Kim sợ vì thế mà cha sẽ bắt Kim phải về. Việc Kim đến nhà họ “làm San” đã được chi trả một khoản tiền khá (dù cha không muốn). Nhưng Kim kể chuyện đó cho bà Hồng. Bà Hồng nghe với vẻ dửng dưng (lại dửng dưng). Kim không còn ngạc nhiên khi gặp quá nhiều nỗi dửng dưng như thế trong nhà này như những ngày đầu. Nhưng bà Hồng nhỏ nhẹ trước khi rời bếp : “Cháu không thấy các cô cậu nhà này chẳng ai giống ai à?”
Kim thường xuyên gặp gã chế bánh flan trong bếp. Một lần như thế, (hẳn đêm trước điều gì đó khiến gã hào hứng, như được người tình tặng quà, hay đội bóng của gã chiến thắng chẳng hạn, mà…) trông thấy Kim, gã vui vẻ vẫy Kim lại, thậm chí còn yêu cầu Kim khuấy giúp gã tô trứng gà. Gã giải thích đơn giản rằng món bánh này phải làm thủ công mới ngon, chứ cho vào máy quay tít thì vô vị. Thế là, trong không khí thân mật hiếm hoi, gã kể mối tơ duyên với bánh flan của mình.
Câu chuyện xảy ra trong một bộ phim dành cho thiếu niên của Nhật Bản. Bối cảnh phim là một trường trung học. ở đây mỗi ngày đều xảy ra một sự việc rất lạ lùng: Cứ đúng 12 giờ trưa là hàng trăm học sinh cùng chạy đến căngtin để mua bằng được cho mình một chiếc bánh flan.
Vấn đề là để mua được bánh, họ đã phải chạy đua với nhau, giành giật rất kịch liệt. Và ngày nào cũng thế, chiến thắng chỉ 12 người, vì mỗi ngày căngtin chỉ bán đúng 12 chiếc bánh mà thôi.
Những chiếc bánh flan đó hẳn là rất tuyệt vời? Đương nhiên. Nếu không tuyệt vời thì không thể khiến ngần đó học sinh dồn tâm dồn sức cho cuộc chạy đua trở thành một trong 12 chủ nhân của 12 chiếc bánh “thần tiên” kia.
“Mày có bao giờ nghĩ, nếu mày là thằng cha bán bánh kia, nếu mỗi ngày đều có hàng trăm học sinh cùng muốn mua bánh đến thế, mày có thể sản xuất hàng loạt và bán đại trà, đem lại một nguồn thu lớn, nhanh chóng làm giàu. Nhưng tại sao mày lại chỉ bán 12 chiếc bánh mỗi ngày mà không bán nhiều hơn? Mày có nghĩ hoạ ngu mới không nhìn thấy món hời ấy không?”
Gã hỏi chỉ để hỏi. Tất nhiên. Kim cũng không buồn trả lời. Kim mải nghĩ đến San. Cuối cùng, sau bao nhiêu ngày giả làm cô ta, Kim đã nhìn thấy cô ta trong ảnh:
“Mẹ” chỉ sống quẩn quanh trong căn phòng tít tận tầng năm của ngôi nhà to rộng như một tiểu cung điện vua chúa. Bao quanh ban công là những tấm lưới sắt dày vô cùng vững chắc. Ban đầu Kim nghĩ chúng dùng để ngăn không cho quần áo phơi trên tầng khỏi bay tứ tung, hoặc chim trời vô ý sa xuống (người ta bảo chim sa cá nhảy là họa vô đơn chí, độc lắm, xui lắm). Nhưng Kim chưa từng thấy người làm phơi quần áo trên tầng năm bao giờ.
Một lần, trong lúc hiếm hoi không có ai ở nhà, để khuấy động không khí buồn tẻ, Kim trêu “mẹ” bằng việc nói Kim phải đi học. Nhưng dù có dỗ ngon ngọt, nói lý kiểu gì “mẹ” cũng không chịu cho Kim đi. “Mẹ” bảo mẹ rất nhiều tiền, con không phải đi học làm cho cho mệt óc, mai sau vẫn sung sướng như bà chúa ông hoàng.
Bà Hồng bảo mấy người con của “mẹ” chẳng ai phải mất công học hành gì cả mà cũng có bằng cấp cao, mỗi người có tới ba, bốn cái xe, thích đi xe gì thì đi. Ngày tháng trong đời họ chỉ quẩn quanh với mấy khái niệm du lịch, tiêu xài, hưởng thụ. Trang sức treo lủng lẳng đầy người, nếu có ngã cũng không đứng dậy được vì vàng.
“Có một bộ phim, tao xem lâu lắm rồi, nhưng tên phim thì là cái mẹ gì tao cũng không nhớ nữa. Đại khái nói về một nhà chuyên làm bánh truyền thống ở Nhật. Eo ơi, người Nhật coi trọng chữ tín khủng khiếp. Tóm lại là rất gàn dở. Gàn dở nhưng mà …hay.”
Đó là một bộ phim truyền hình Nhật chiếu trên ti vi ta cách đây nhiều năm. Bộ phim kể về một gia đình có nghề truyền thống làm bánh. Cửa hàng bánh của họ rất có uy tín, và để tồn tại qua nhiều thế hệ, họ đã trải qua rất nhiều gian nan thử thách.
Cũng như các nước nhanh phát triển trên thế giới, nước Nhật cũng mỗi ngày một thay da đổi thịt. Trong bối cảnh đó, cửa hàng bánh đã chênh chao đứng ở ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Để bắt nhịp với thời cuộc, họ đã sản xuất bánh với số lượng đại trà, đổi mới các công thức chế biến, bánh chất lượng hơn và sản xuất nhiều hơn, nhanh hơn công nghiệp hơn. Khách hàng cũng đón nhận rất nhiệt tình những thành quả ấy.
Nhưng… cuối cùng, chính khách hàng lại quay lưng. Họ đã đi qua cơn say nắng, và khi tỉnh lại trong bóng râm, họ nhận ra rằng họ không thể chấp nhận thứ bánh sản xuất đại trà bởi những cỗ máy công nghiệp, thiếu “tâm huyết”, “tình cảm” của một con người.
Khi đó, nhiều người xem phim cho rằng có lẽ người Nhật quá khó tính không chỉ trong lĩnh vực ẩm thực, mà còn nhiều lĩnh vực khác nữa. Làm sao họ cứ phải tự làm khổ mình chỉ vì mấy thứ gọi là truyền thống chi cho mệt. Cứ cho rằng nước Nhật để lại những ấn tượng khó phai trong lòng du khách quốc tế chính vì họ đã gìn giữ văn hóa truyền thống của mình như báu vật, nhưng trong khi đó nước Mỹ đâu có cần văn hóa truyền thống mà vẫn hoành tráng toàn cầu đấy thôi… Nói chung là người ta đã bực mình với nhân vật trong phim và liên hệ thực tế như thế.
Kim hay chơi ác. Khi cảm thấy mình đang dắt mũi ai đó, Kim luôn muốn dồn họ đến cùng.
Ngày nọ, Kim bày một trò mới. Nhân khi “mẹ” lơ là, Kim lẻn đi rất nhanh. Nhưng không phải đi xuống nhà dưới, mà trốn vào sâu trong phòng ngủ. Từ bên trong, Kim có thể nhìn rất rõ những việc “mẹ” làm.
“Mẹ”, hỡi ôi, giống hệt một kẻ tham lam nào đó bị kẻ trộm cuỗm sạch sành sanh số tiền vàng nhiều năm ki cóp.
Điều Kim ít ngờ đến là “mẹ” lồng lên gào khóc. Nhưng lạ là “mẹ” không chạy xuống nhà dưới tìm Kim, mà vật vã trên sàn. Kêu khóc một hồi, đột nhiên “mẹ” chạy ra lan can, cứ thế móc tay vào những mắt lưới sắt mà giằng mà giật. ý chừng muốn nhảy xuống bên dưới mà những mắt lưới chết tiệt không chịu tránh ra. Khi bà Hồng chạy lên đến nơi, “mẹ” đã rũ xuống, miệng sùi bọt, như thể vừa uống một chai thuốc sâu kịch độc.
Bà Hồng bảo, mỗi khi lên cơn nhớ San, “mẹ” thường tìm cách nhảy lầu. Lạ là chả bao giờ “mẹ” thành công. Cứ như San vô cùng linh thiêng, xui khiến người ta đến cứu mẹ cô ta kịp thời. Rồi lại chính anh con cả đưa ra sáng kiến vây lưới sắt quanh tầng năm của “mẹ”. Từ ngày có lưới sắt, cả nhà họ yên chí hẳn, vì “mẹ” chỉ có một cách muốn chết là nhảy lầu thôi.
Có lần độc diễn xong một tích chèo ngắn, trả lời câu hỏi lớ ngớ của Kim, “mẹ” trách Kim mau quên. “Mẹ trước làm ở đoàn văn công Sao Mai, toàn thủ vai nữ chính. Gặp và lấy bố con mới thôi đấy”.
Rồi “mẹ” ngồi thụp xuống, vuốt má Kim, thình lình khóc, nước mắt ròng ròng.
“Bố con hát chèo hay nhất đoàn cơ đấy”.
Một hôm khác, sau khi hát xong, “mẹ” đột ngột buồn hiu: “San à. Bố con ghét đàn hát xướng ca biết bao. Ông ấy chỉ giỏi tán gái, cái mồm dẻo có chòi có chóp. Không thế làm sao lấy được vợ văn công…”.
Lâu dần, Kim mơ hồ về câu chuyện mơ hồ của “mẹ”. Sống với người mơ hồ mãi, không khéo Kim lây rồi cũng nên…
…Thực tình, việc trêu chọc khiến “mẹ” “lên cơn” sùi bọt mép làm Kim sợ. Mà bà Hồng thì như kì đà, thình lình cản đường thoái lui của Kim. Nép chặt vào tấm ri đô cuối góc phòng, Kim nín thở chờ mọi việc chậm chạp trôi qua.
Căn phòng rộng, chia làm hai ngăn nhỏ, một ngăn làm “phòng khách”, đặt ti vi, các đồ dùng, thiết bị khác, một ngăn chỉ để giường ngủ, tủ quần áo, bàn viết. Có lẽ đây chính là nơi bí mật mà gã từng cảnh báo Kim trước đây.
Phòng ngủ sang trọng, nhưng vẫn phảng phất một mùi gì đó. Không phải mùi hôi, mà là một thứ mùi khó tả. Có thể đó là một mùi đặc biệt của sự mơ hồ, cô đơn, sầu muộn.
Việc khiến Kim hoảng sợ hóa ra bà Hồng xử lí quá đơn giản. Bà ta chỉ việc đỡ chủ của mình vào phòng, lấy khăn ướt lau miệng, mặt mũi cho chủ, rồi dỗ chủ đi nằm. Sau đó bà ta mở đầu đĩa, cho quay ới a một chương trình hát chèo.
Thế là “mẹ” ngoan ngoãn nằm im như một em bé. Lúc sau đã ngủ.
Còn lại một mình, Kim vẩn vơ trong căn phòng, và rồi một ý nghĩ thôi thúc sự tò mò vốn chìm sâu trong tiềm thức – ở đây là hoàn cảnh tạo nghiệp chướng – Kim bắt đầu muốn chạm tay vào những thứ mà Kim nghi nó chứa những bí mật có liên quan đến người đàn bà kì lạ đang ngủ kia.
Trên chiếc bàn giấy được điểm trang bởi một bình hoa hồng, Kim thấy vài bức ảnh lồng khung kính.
ảnh chụp “mẹ” khi còn trẻ. Rất xinh, trong bộ lụa sân khấu, hay xiêm y của một công chúa cổ xưa. Mọi người thường hay nịnh bợ bản thân một cách quá đáng, họ hay trưng những bức ảnh thời trẻ đẹp để gặm nhấm những dư vị ngọt ngào nuối tiếc. Mấy bức ảnh kiểu này Kim đã thấy treo dưới phòng khách. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Đáng ngạc nhiên là một bức ảnh chụp “mẹ” bên một cô gái nhỏ. Cô gái gầy gò, đôi mắt mở to, cái miệng nhỏ xinh, hình trái tim như mỹ nhân trong tranh.
Hẳn đó là San.
Bà Hồng cũng không phải người trung thành tuyệt đối với chủ. Khi chỉ có Kim, bà ta vẫn nói xấu chuyện nhà chủ như những người thích ngồi lê khác. Chẳng hạn như vợ chồng anh cả lười chảy thây, ăn chơi như phá mả. Cô con gái út mấy lần hút thai, giàu mà toàn chơi với mấy thằng ngu. Hay bản thân ông chủ xuất thân cũng vớ vẩn, chỉ giỏi mồm mép và đi lên từ lừa lọc. Nghe đồn ông đã dùng thủ đoạn “kiến tha lâu cũng đầy tổ” (chả biết Tôn Tử binh pháp gọi là kế gì) đục khoét toàn bộ gia sản của một người bạn có vợ chết trẻ (đến nỗi ông này phát điên ( lại điên ) và chết trong cô độc) để làm nền tảng bước vào thương trường. “Kiến” này đương nhiên không phải ông, mà là…vợ ông. Người vợ văn công xinh đẹp…
Mà ông bạn xấu số này không phải là trường hợp duy nhất.
Tuy nhiên, họ không vô công, ít ra họ cũng để lại cho vợ chồng ông một vài kỉ niệm.
Đại khái thế.
Trở lại câu chuyện về 12 chiếc bánh flan. Đây là câu chuyện xảy ra trong căngtin của một trường trung học. Phải chăng 12 chiếc bánh này quá đắt đến nỗi ai trả nhiều tiền hơn sẽ được ăn? Không phải vậy. Nó chỉ là những chiếc bánh là học sinh nào cũng có thể mua được.
Nhân vật chính của phim này rất mê mẩn những chiếc bánh flan. Anh ta chỉ một lần duy nhất được thưởng thức do mạo hiểm với tính mạng mà có được. ( Điều này có nghĩa là nhiều em học sinh ở đây chỉ coi chiếc bánh flan là niềm mơ ước xa vời) Nhưng khi được đàn em dùng vũ lực đoạt lấy 12 chiếc bánh flan cho anh ta thưởng thức, thì anh ta vô cùng tức giận, rằng điều thú vị, sức hấp dẫn và vị ngon tuyệt vời nhất của 12 chiếc bánh mỗi ngày chính là việc nó đã khiến người ta phải dùng hết khả năng sức lực, trí tuệ của bản thân giành được. Nếu đoạt được nó dễ dàng, thì 12 chiếc bánh đó đều vô nghĩa.
…Tất cả những cánh cửa tủ đều treo lủng lẳng chùm chìa khóa của chính nó (như một cái bẫy cố ra vẻ hớ hênh). Có thể bên trong chứa đầy tiền vàng, cũng có thể không gì cả ngoài chiếc camera nhỏ xíu, luôn sẵn sàng ghi hình kẻ tham lam nào đó và truyền về “tổng đài” đâu đó trong căn nhà rộng lớn.
Kim sẽ không mở chúng, vì Kim không tham. Kim chỉ tò mò, ít ra thì lúc này là vậy.
Cuốn album ảnh to với bìa bằng da nâu đồ sộ như cuốn biên niên sử thế giới nằm khiêu khích bên góc bàn.
“Hãy mở tớ đi!” – Nó nài nỉ.
Album chứa những bức ảnh rất đẹp. Có một vài khuôn mặt Kim từng gặp đâu đó.
Đôi mắt lạnh của anh cả nhà họ. Nhưng già dặn hơn.
Những bữa tiệc ngồn ngộn thức ăn và đám thực khách đang hỉ hả cụng ly.
Khuôn mặt tròn xoay và đôi mắt nhỏ xíu của gã. Nhưng cổ xưa hơn.
Mấy người đang thành tâm khấn vái trước Bồ Tát Quân Âm ở một ngôi chùa nào đó.
Đôi môi mỏng cong cớn, cái mặt lưỡi cày của cô chủ “hút thai” cắm trên cổ một người đàn ông.
Một cô gái điệu đà tạo dáng bên một đóa hoa hồng.
Một đứa trẻ lẫm chẫm đi, tay ôm con thú bông.
Một hoàng tử khoác long bào, đeo gươm bên hông, mím môi, liếc mắt về phía một thôn nữ (“mẹ”) bên suối.
Kim từng thấy đôi mắt này, cái miệng này ở đâu đó…
…Cầm bức ảnh trên tay, tim Kim nhảy chồm chồm trong lồng ngực, rồi tức thì nó bị cái gì đó như khối đá băng đè nghiến lên, nặng nề và lạnh buốt.
…Gã đơn phương kết thúc hợp đồng. Kim không ăn cắp, không tọc mạch, nhưng đã làm tổn thương tâm lý bà chủ một cách “nghiêm trọng”. Bây giờ bà ta thậm chí còn mơ hồ hơn cả mơ hồ. Nói khác đi, Kim là đứa con thuê tai quái nhất trong số những đứa tai quái từng làm con thuê nhà họ.
“Tao nghĩ bọn này có cách giáo dục thanh thiếu niên hay như thế, hèn gì đất nước nó nguyên tắc, tự nguyện và văn minh đến thế. Muốn ăn thì phải bỏ công sức hẳn hoi, phải vận động. Vấn đề là ở chỗ ấy, chứ chẳng phải bí quyết mẹ gì ở những cái bánh.”
Gã nói đúng. Với Kim, cái gì thuộc về gã cũng tệ, riêng câu đó thì Kim chấp nhận.
Kim đến viếng “mẹ” một lần duy nhất, khi cỏ đã xanh trên lớp đất vàng nâu, và những bông hoa giả trên những vòng hoa to sụ đã bợt hết màu theo mưa gió.
Ông chủ làm ma cho vợ theo kiểu bình dân.
Kim không quan tâm đến điều đó.
Kim cũng chẳng có gì để nói với người dưới mộ.
Kim chỉ nghĩ đến câu chuyện về 12 chiếc bánh flan mà gã kể. Có còn gì mà câu chuyện muốn nói và gã không nhận ra. Hay là không phải cứ có tiền là mua được những gì mình muốn?
Kim đặt bức ảnh hoàng tử khoác long bào cùng bức ảnh mẹ con San trên xanh mộ. Kim tin họ thuộc về nhau.
Đó là thứ duy nhất Kim lấy cắp.
Hà Nội, tháng 4 năm 2011
BT: Vương Chi Lan