Tiểu sử Nhà thơ Bùi Giáng
Bùi Giáng sinh năm 1926 (Bính Dần) tại Thanh Châu, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, con thứ của ông bà Bùi Thuyên và Huỳnh Thị Kiều.
Nhà Thơ Bùi Giáng
Ông được văn giới, không phân biệt không gian thời gian, yêu mến trọng vọng. Những tác phẩm đầu của ông là sách giáo khoa in năm 1957, như “Một vài Nhận xét về Bà huyện Thanh Quan”, “Lục Vân Tiên”, “Chinh phụ ngâm”,… nhưng tiếng tăm ông nổi bật từ tập thơ “Lá hoa cồn” (1963). Ông là một nguời tự học và học rất trễ, tuy nhiên khả năng tinh thông nhiều ngôn ngữ của ông, kể cả những ngôn ngữ khó như chữ Hán và tiếng Đức, làm kinh ngạc mọi người trong văn giới.
Những cuốn sách đầu của ông là sách giáo khoa in năm 1957, Bùi Giáng đã là một tên tuổi quá quen thuộc với đông đảo bạn đọc. Ông thường tự nhận là “trung niên thi sĩ” cùng hàng loạt biệt danh trào lộng: Thi sĩ đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ…
Ông được xem như một “ngôi sao” trên vòm trời văn hóa văn nghệ miền Nam trước đây, được không ít độc giả xưng tụng là “thiên tài”, là “bậc thượng trí”, là “đáng tiêu biểu hơn cả về thi ca bây giờ và có lẽ… vạn đại” và tôn ông làm “thần tượng”. Gần đây, một số tác phẩm, dịch phẩm của Bùi Giáng được tái bản rộng rãi. Ông đã dịch nhiều sách Pháp, Anh, Hán văn như “Hamlet” của Shakespeare, “Hoàng tử bé” của Saint Exupéry, “Ngộ nhận” của Albert Camus, “Khung cửa hẹp”, và “Hoà âm điền dã” của André Gide, “Kim kiếm điêu linh” của Ngoạ Long Sinh…
Ông đã biên soạn các tiểu luận triết học và văn học như “Tư tưởng hiện đại”, “Thi ca tư tưởng”, “Lễ hội tháng ba”, “Con đường ngã ba”, “Con đường phản kháng”, “Đi vào cõi thơ”… Đặc biệt, gây nhiều tranh luận sôi nổi nhất là những tập thơ của ông, từ “Mưa nguồn”, “Lá hoa cồn”… đến “Trăng châu thổ”, “Sương bình nguyên”, “Bài ca quần đảo”, “Rong rêu”… Ai đã từng tiếp xúc Bùi Giáng trong trang sách lẫn ngoài cuộc đời, hầu như chưa thể bình luận gì về ông…
Bùi Giáng qua đời lúc 2h chiều ngày thứ tư, 7-10-1998 tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, khi viếng linh cửu Bùi Giáng, đã viết lưu niệm trong sổ tang, như sau:
Bùi Giang Bàng Dúi Bùi Giàng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hóa ra thi thể là ngàn hư vô
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô tận ứ ừ viễn vông
(Trịnh Công Sơn – 1998)